Monday, December 14, 2020













                  

     








Thần Chú Đại Bi Thông Thiên Địa
持〈大悲咒〉,只要誠心念,不打妄語;一定有用



Ðại-Bi-Tâm Ðà-Ra-Ni
Ðại Bi Chú

Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Thần Chú


Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần). 

Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc la đát na đa la dạ da.
Nam mô a rị da,
Ba lô yết đế,
Thước bác ra da,
Bồ đề tát đoả bà da,
Ma ha tát đoả bà da,
Ma ha ca lô ni ca da.
Án tát bàn ra phạt duệ,
Số đát na đát tỏa.
Nam mô tả tất kiết lật đỏa,
Y mông a rị da,
Bà lô kiết đế,
Thất phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị,
Ma ha bàn đa sa mế,
Tát bà a tha đậu thâu bằng,
A thệ dựng,
Tát bà tát đa,
Na ma bà già,
Ma phạt đạt đậu,
Đát điệt tha.
Án,
A bà lô hê,
Lô ca đế,
Ca ra đế,
Di hê rị,
Ma ha bồ đề tát đoả,
Tát bà tát bà,
Ma ra ma ra,
Ma hê ma hê,
Rị đà dựng,
Cu lô cu lô,
Kiết mông độ lô độ lô,
Phạt xà ra đế,
Ma ha phạt xà da đế,
Đà ra đà ra,
Địa rị ni,
Thất phật ra da,
Dá ra dá ra.
Mạ mạ phạt ma ra,
Mục đế lệ,
Y hê di hê,
Thất na thất na,
A ra sâm phật ra xá lợi,
 Phạt sa phạt sâm,
Phật ra xá da,
Hô lô hô lô ma ra,
Hô lô hô lô hê rị,
Ta ra ta ra,
Tất rị Tất rị,
Tô rô tô rô,
Bồ đề dạ bồ đề dạ,
Bồ đà dạ bồ đà dạ,
Di đế rị dạ na ra cẩn trì 
địa rị sắc ni na,
Ba dạ ma na ta bà ha.
Tất đà dạ ta bà ha,
Ma ha tất đà dạ ta bà ha.
Tất đà du nghệ
thất bàn ra dạ,
Ta bà ha.
Na ra cẩn trì,
Ta bà ha.
Ma ra na ra,
Ta bà ha.
Tất ra tăng a mục khê da,
Ta bà ha.
Ta bà ma ha,
A tất đà dạ,
Ta bà ha.
Giả kiết ra a tất đà dạ,
ta bà ha.
Ba đà ma yết tất đà dạ,
Ta bà ha.
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ,
Ta bà ha.
Ma bà lợi thắng yết ra dạ,
Ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na,
Đa ra dạ da,
Nam mô a rị da,
Bà lô yết đế,
Thước bàng ra dạ,
Ta bà ha.

Án tất điện đô, mạng đa ra, Bạt đà dạ, Ta bà ha.

☸ ☸ ☸ ☸ ☸ ☸   



Thần Chú Đại Bi Thông Thiên Địa

 持〈大悲咒〉,只要誠心念,不打妄語;一定有用 

Trì Đại Bi Chú, chỉ cần thành tâm niệm, không nói vọng ngữ, nhất định hữu dụng Hòa Thượng Tuyên Hóa Kính Thưa các vị thiện tri thức! 
 Những người học Phật Pháp không nên có ý nghĩ tham lam hay tranh giành. Một số người là như thế đó khi họ càng học thì càng tranh giành; càng học lại càng trở nên tham lam hơn. Đây là chuyến viếng thăm đầu tiên của tôi đến nước Bỉ. Đa số những người trong thính chúng ở đây là người Việt Nam. Mặc dù có thể có một số khó khăn giao tiếp vì sự không đồng ngôn ngữ, nhưng mọi người rất có trật tự. Khi tôi đi đến Mã Lai và Đài Loan, có những Phật tử ở đó cứ mỗi hành động là thể hiện lòng tham và tranh giành của họ. Do một số sự việc kỳ diệu xảy ra trong chuyến viếng thăm đầu tiên của tôi đến Mã Lai, tôi có thể thấy được mặt thật những người ở đó thực sự là như thế nào. Tôi đang nói về những chuyện kỳ diệu gì? Tại Mã lai có rất nhiều người là nạn nhân của tà thuật dùng bùa chú nguyền rủa hại người của các pháp sư ngoại đạo. Tôi nhớ có một người bị ảnh hưởng của tà thuật trong mười lăm năm. Mỗi ngày tà thuật này đưa ông ta đến tư tưởng muốn tự sát, nhưng một phần khác trong ông nói ông ta không được tự sát. Với một phần tâm trí của ông nói ông ta tự sát và một phần khác nói ông ta không được tự sát, mỗi ngày là một cuộc đấu tranh giữa sự sống và sự chết với ông. Khi tôi đến Mã Lai, tôi tin rằng đó là ở thành phố Muar, có một người đã quỳ gối và cầu xin tôi để giúp ông ta thoát khỏi tà thuật. Ông vào khoảng năm mươi mấy tuổi. Khi tôi nghe lời yêu cầu của ông, tôi lấy cây gậy cong ngoằn ngoèo của tôi và đánh một gậy vào đầu ông ta. Đó là trong chuyến đi đầu tiên của tôi đến Mã Lai. Lúc đó tôi bị bệnh và hầu như không đủ sức để đi bộ. Nhìn thấy tôi đi rất chậm, ai đó đã cho tôi cây gậy đó dùng để đi bộ. Vì thế khi nghe về người bị tà thuật, tôi đã không vui nhặt cây gậy lên và đánh ông ta một gậy. Sau khi bị đánh, ông đứng dậy và chạy đi. Sau khi ông chạy mười mấy bước, ông đã ói mửa ra hàng ngàn con trùng không thể đếm được. Sau đó, ông ta khỏe lại. Khi tin tức về sự việc này lan truyền ra, nhiều người đã đến để chờ tới lượt mình được đánh một gậy, nhưng tôi không có thời gian để đánh hết tất cả những người đó. Người này có một bệnh, và người kia có một bệnh khác. Phòng tôi tạm trú thì cách phòng vệ sinh vào khoảng một trăm bước. Mỗi ngày lối đi từ cửa phòng tôi đến phòng vệ sinh đầy người quỳ gối xếp hàng chờ đợi để yêu cầu được đánh. Về phần họ tôi không biết đó là thành tâm hay tham lam, nhưng họ bắt đầu xếp hàng tại cửa phòng tôi ngay từ sáng sớm. Khi tôi ra khỏi phòng mình để đi đến phòng vệ sinh thì không có chỗ cho tôi đi qua. Họ chặn đường và bao quanh tôi, và yêu cầu tôi đánh họ. Tôi không còn sự lựa chọn nào bèn đọc một “thần chú”. Đó là thần chú đi nhà vệ sinh, như thế này, “Nếu quý vị không ra khỏi lối đi của tôi, tôi sẽ tiểu tiện ngay trên đầu của quý vị. Nếu quý vị không sợ bị phun nước tiểu, thì cứ quỳ tại chỗ của quý vị.” Khi họ nghe như thế, cuối cùng họ đã mở ra một lối đi cho tôi đi qua. Mục đích của câu chuyện này là gì? Nó cho thấy rằng những Phật tử đó đã không hiểu Phật Pháp. Khi họ không tranh giành, thì họ lại tham lam. Họ không quan tâm đến cho dù người ta có thời gian hay không; họ sẽ chặn đường người ta và tranh giành để được đầu tiên. Họ đã tranh giành. Học Phật Pháp như thế thì không phải là hiểu Phật Pháp. Học Phật Pháp, quý vị nên nhường người khác và lịch sự trong tất cả mọi việc. Đừng tranh giành với bất cứ ai. Vạn Phật Thánh Thành có sáu “kính chiếu yêu”, và cái đầu tiên là không tranh. Khi tôi ở tại Mãn Châu [Đông Bắc của Trung Hoa], có lần có một dịch bệnh truyền nhiễm. Trong một gia đình mười một người, đã có mười ba người chết trong ba ngày. Làm thế nào mà như thế? Đó là vì có hai vị khách đến thăm khi dịch bệnh xảy ra, và do đó, cả gia đình mười một người người cùng với hai vị khách qua đời, trở thành tất cả mười ba người. Đã có người chết ở nhiều gia đình. Quan sát tình hình, tôi không chờ đợi được mời. Tôi đem theo một vài đệ tử, và chúng tôi đã tụng Chú Đại Bi cho cả làng. Sau đó các dịch bệnh giảm xuống. Và rồi nhiều người đã trở thành Phật tử. Họ quy y Tam Bảo và trở thành đệ tử của tôi. Bất cứ ai thành tâm tụng Chú Đại Bi thì có thể có được cảm ứng. Có một cặp vợ chồng đã cãi nhau, người vợ đã cố tự tử bằng cách uống dung dịch kiềm. Ngay cả uống một ngụm dung dịch kiềm thường cũng có thể gây chết người, huống gì uống cả một tô đầy, nhưng bà ta uống loại được dùng để làm đậu hũ, cho nên không mạnh lắm. Sau khi bà ta uống dung dịch kiềm trong cơn tức giận, con trai của bà đã đến tìm tôi, vì tôi đang ở trong làng của họ vào lúc đó. Anh ta thực sự không biết liệu tôi có thể giúp được anh ta, nhưng trong trường hợp khẩn cấp anh sẵn sàng thử bất cứ điều gì. Vì anh không thể nghĩ đến một giải pháp nào tốt hơn, nên anh chạy đến tìm tôi, quỳ gối, và kể cho tôi những gì đã xảy ra. Anh cầu tôi cứu mẹ anh. Lúc đầu tôi đã từ chối, nhưng anh tiếp tục quỳ như thế đến hai mươi hay ba mươi phút. Thấy anh rất thành khẩn, tôi đã đến nhà của anh để tụng Chú Đại Bi. Khi tôi đến nhà của anh, đôi mắt của mẹ anh đã trợn ngược lên và các lòng trắng đã lộ ra; không còn thấy con ngươi. Bọt trắng tràn ra khỏi miệng của bà, và bà đã bất tỉnh. Dường như vô vọng. Tuy nhiên, tôi vẫn quyết định thử và tụng Chú Đại Bi. Trong lúc tôi tụng, dung dịch kiềm bắt đầu chảy ra khỏi miệng của bà. Bà tỉnh lại và ói ra tất cả dung dịch kiềm đã nuốt. Sau đó, bà được hồi phục. Từ chuyện này, nên biết rằng nếu chúng ta thành tâm tụng Chú Đại Bi, chắc chắn có cảm ứng. Chú Đại Bi thông thiên địa, và có thể chữa khỏi tất cả 84.000 các loại bệnh trên thế gian. Nhưng người tụng chú phải thành tâm mới có cảm ứng. Họ cũng không được nói dối để có hiệu quả. Nếu quý vị luôn nói dối thì tụng Chú Đại Bi sẽ không có linh ứng gì. Tôi nhớ tới một cô gái họ Vương từ thành phố Penang, Mã Lai. Trong kiếp quá khứ, cô đã săn bắn nhiều và đã giết chết nhiều sinh vật, và vì vậy, trong kiếp này cô đã bị câm. Cô đến để nghe giảng Kinh. Sau buổi giảng, tôi nói cô ấy thành tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và tụng Chú Đại Bi. Tất cả mọi người cũng tụng cho cô. Và rồi cô có thể nói và niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Sáng hôm sau, có hơn một chục người yêu cầu tôi giúp người câm này và người câm kia để có lại khả năng nói năng. Có hơn một chục người, và như vậy thì không thế nào làm được. Nhưng các người cha của những người câm thì nói được, và họ nói, ” Tối qua thầy đã giúp cô gái câm kia có lại khả năng nói; hôm nay thầy nên giúp những người này giống như vậy. Nếu thầy không giúp, chúng tôi sẽ chỉ trích thầy trên báo chí và kiện thầy tại tòa án.” Quý vị thấy là vị Pháp Sư này đã tự đem đến cho mình bao nhiêu rắc rối, tất cả chỉ vì sự nóng lòng muốn giúp người khác! Nếu tôi không tự mình quan tâm đến một người câm, tôi sẽ không gặp tất cả những rắc rối này. Tại Vancouver, Canada, có một nữ bác sĩ giải phẫu. Khi cô ấy đang học tại trường y khoa, người ta chế giễu cô, nói rằng, “Cô dám theo học y khoa sao? Tại trường y khoa, cô phải mổ xẻ tử thi người. Cô có dám và đủ can đảm để làm điều đó không?” Nghe thế, cô lập tức lấy một con dao, cắt một miếng thịt từ một xác chết, và ăn miếng thịt đó. Các bạn cùng lớp đều choáng váng và kêu lên rằng cô thực sự có can đảm, dám ăn thịt của một xác chết. Người phụ nữ này là một bác sĩ giải phẫu, và khả năng phẫu thuật của cô vừa nhanh nhẹn vừa chính xác. Tuy nhiên, con ma của cái tử thi bị cô ăn thịt thường quấy nhiễu cô trong giấc ngủ. Từ đâu đó cô nghe nói ma sợ tôi, và rằng nếu cô quy y với tôi thì cô sẽ được hồi phục. Cô tìm cơ hội để quy y với tôi. Sau khi cô quy y, con ma không còn quấy nhiễu cô vào ban đêm nữa. Sau đó, cô bắt đầu giảng Phật Pháp. Bằng cách dùng tư cách là một bác sĩ của mình, cô ấy nói với mọi người là Phật Pháp rất uyển chuyển. Cô nói rằng tất cả mọi người có thể trở thành Phật mà không cần phải tu hành hoặc giữ giới luật, bởi vì tất cả mọi người vốn là Phật ngay từ lúc ban đầu. Cô nói không cần sống một cuộc sống kỷ luật về mặt đạo đức, do đó, cô hút thuốc và uống rượu. Cô đã đi khắp mọi nơi nói những điều đó, và cuối cùng cô bị quả báo. Cô bị ung thư. Cô được giải phẫu và nghĩ rằng đã được chữa khỏi, nhưng cô vẫn còn đau khủng khiếp. Cô cuối cùng đã có tất cả năm hoặc sáu lần giải phẫu. Các bác sĩ nói với cô rằng không còn hy vọng và cô sẽ chết. Sau đó, cô gọi một người bạn ở Nữu Ước để giã từ. Cô kể với bạn cô lời các bác sĩ đã nói là cô sẽ chết và không thể chữa được, và rằng cô vẫn còn rất đau sau các cuộc giải phẫu. Bạn của cô, người không biết tôi một cách trực tiếp, đã viết cho tôi nói, “Bạn của con là một bác sĩ và là người hiểu Phật Pháp. Cô có bệnh ung thư. Nếu cô ấy bình phục, cô có thể cứu được những người khác. Cô có thể dùng hoàn cảnh của mình là một bác sĩ để truyền bá Phật Pháp, và sẽ giúp rất nhiều cho Phật giáo.” Tôi viết thư trả lời và hỏi người đó là ai. Bạn của cô biết cô ấy đã quy y với tôi. Tôi nhớ sau khi cô bị ung thư, cô đã đến gặp tôi ở Gia Nã Đại một lần. Khi tôi hỏi cô rằng cô có bị bệnh không thì cô đã chối. Cô đã không sẵn sàng chấp nhận chuyện đó. Sau đó tôi mắng cô. Tôi mắng cô đến nỗi cô không thể chịu được nữa. Khi cô đứng lên và định chạy đi, tôi tát vào mặt của cô và nói, “Ta đang đuổi đi con quỷ nhỏ! Con quỷ lớn quay lại! Chúng ta hãy xem con quỷ lớn này có thể làm gì!” Kỳ lạ thay, cái tát đó xua đuổi ung thư của cô đi. Việc này xảy ra ở Gia Nã Đại. Làm thế nào điều này có thể xảy ra? Bởi vì tôi đã không bao giờ nói dối. Nếu quý vị nói dối, thì làm gì cũng không linh ứng. Nếu không nói dối, tất cả mọi thứ đều linh ứng. Đó là lý do tại sao tôi hy vọng tín đồ Phật giáo sẽ không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tư lợi, và không nói dối. Điều này rất quan trọng!.
_____________________